1. Dòng sự kiện:
  2. Tư vấn tài chính cá nhân
  3. VNDirect bị tấn công
  4. Lùm xùm nợ thẻ Eximbank 8,8 tỷ đồng

Hạ lãi suất, nửa mừng nửa lo...

(Dân trí) - Với việc NHNN lần thứ 7 yêu cầu hạ lãi suất chính sách kể từ năm ngoái, doanh nghiệp chưa kịp mừng thì đã lo "liệu lãi suất vay có hạ như mong muốn?" còn quốc tế phần nào quan ngại, nguy cơ lạm phát có trở lại?

Quên bẵng luật Dân sự về lãi suất cho vay

Theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), kể từ hôm nay, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9%/năm xuống còn 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ 10%/năm xuống 9%/năm.

Trần  lãi suất tiền kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng giảm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm.

Trao đổi với

Trao đổi với Dân trí sáng nay, chuyên gia kinh tế - tài chính Bùi Kiến Thành cho rằng, những bất cập khi hạ lãi suất huy động nhưng lãi suất cho vay vẫn không giảm đó là do NHNN không quy định về trần lãi suất cho vay mà để cho bên đi vay và cho vay thỏa thuận.

Mặt khác, quan trọng hơn là “NHNN cũng như các ngân hàng thương mại đã quên bẵng mất quy định tại Khoản 1 và 2, Điều 476 về lãi suất: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.

Vì vậy, kể cả khi giảm lãi suất chính sách, song không có gì để chắc chắn rằng các ngân hàng sẽ cho vay ở một mức thấp hơn so với trước.

“Điều luật này đã được Quốc hội đưa ra thảo luận nhiều lần, song vẫn chưa đi đến một quyết định hủy bỏ. Khi chưa hủy bỏ thì luật vẫn còn hiệu lực, nếu không tuân thủ nghĩa là phạm pháp” – ông nói.

“Ở Việt Nam, quản lý nhà nước là rất quan trọng, không thể nói phó mặc cho thị trường và sự đồng thuận của các bên một cách nửa vời như vậy”.

Theo ông, trong hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cần lắng nghe hơn nữa nguyện vọng của doanh nghiệp, để xem doanh nghiệp muốn gì. Doanh nghiệp cần một bằng lãi suất hợp lý hơn, để sống sót cũng như để có sức cạnh tranh với bên ngoài.

“Nguyên lý cơ bản đó là doanh nghiệp có sống được thì Nhà nước mới thu được thuế, doanh nghiệp sống mới tạo ra GDP. Doanh nghiệp lỗ triền miên thì lấy ai đóng tiền mà phát triển!” – chuyên gia Bùi Kiến Thành nhắc lại.

Đánh giá của quốc tế

Ngay sau khi NHNN tuyên bố việc điều chỉnh giảm một loạt lãi suất chính sách vào ngày hôm qua, hàng loạt tờ báo uy tín của quốc tế lập tức đã thông tin cũng như bình luận về sự kiện này.

Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng ANZ cho rằng, động thái này không nằm ngoài dự đoán khi Việt Nam đã rơi vào giảm phát trong tháng 3, dự báo lạm phát trung bình cả năm đã được tổ chức này hạ xuống 6-8% từ mức dự báo trước đó là 8-10%. 

Theo ANZ, nền kinh tế của Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi các phản hồi tiêu cực về tăng trưởng trong nước chậm, thiếu nguồn cung cho vay bởi tỷ lệ nợ xấu cao trong hệ thống ngân hàng, nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp và hộ gia đình yếu. Việc cắt giảm lãi suất phần nhiều hướng đến giải quyết nhu cầu tín dụng yếu này.   

“Chúng tôi dự đoán, đây sẽ là lần cắt giảm cuối cùng trong năm, nhưng cũng không loại trừ khả năng sẽ có lần cắt giảm nữa nếu dữ liệu kinh tế xấu hơn” – ANZ dự đoán.

Tốc độ tăng GDP Việt Nam trong năm 2012 đã xuống thấp nhất 13 năm (ảnh: Bloomberg).
Tốc độ tăng GDP Việt Nam trong năm 2012 đã xuống thấp nhất 13 năm (ảnh: Bloomberg).

Còn trên tờ tài chính Anh Financial Times (FT), các tác giả cho rằng, đây là quyết định gần như không tránh khỏi. 

FT dẫn tuyên bố của NHNN, cho rằng động thái này thể hiện mối quan ngại của cơ quan điều hành đối với việc khôi phục lại nền kinh tế. “Hoạt động sản xuất - kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, do sức mua của thị trường vẫn ở mức thấp, khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp còn hạn chế”.

Lãi suất cho vay cao là một trong những nguyên nhân khiến khoảng 100.000 doanh nghiệp Việt nam đã phải tạm dừng hoạt động hoặc phá sản trong 2 năm 2011-2012, bằng phân nửa tổng số doanh nghiệp phải đóng cửa trong suốt 2 thập kỷ qua.

Thế nhưng, FT đưa ra lưu ý rằng, không có gì đảm bảo trên thực tế các doanh nghiệp sẽ có thể vay được vốn với mức lãi suất thấp như chính sách mà nhà nước mong muốn.

Trả lời phỏng vấn FT, Giám đốc một doanh nghiệp đồ nội thất ở Bình Dương giãi bày, “Năm ngoái tôi đã nộp hồ sơ vay vốn tới 4 ngân hàng song tất cả đều bị từ chối. Mỗi lần nghe tin tức báo đài về việc giảm lãi suất, tôi đều đã thử đến ngân hàng song chưa bao giờ nhận được mức lãi suất nào như họ đưa ra. Hơn một nửa số lao động tại công ty tôi đã bị mất việc trong vòng 2 năm qua. Liệu lần này tôi có thể hy vọng nhiều hơn?”

Theo ghi nhận của FT, lãi suất huy động đã giảm đáng kể từ 14% trong năm ngoái song ảnh hưởng tới hoạt động vay vốn của doanh nghiệp là không đáng kể. Tờ báo cũng chỉ ra một vấn đề tạo nên khoảng cách giữa chính sách và thực tế đó là do một phần khoản vay trước đây ứ đọng lại, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao – trong lúc vay ngân hàng lại là nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp. Để đưa kinh tế phục hồi, phải thúc đẩy sự luân chuyển của dòng tín dụng.

Hãng tin Bloomberg của Mỹ lại nhắc lại, trong lần cắt giảm lãi suất huy động lần thứ 6 trong năm ngoái, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã cảnh báo, nếu hoạt động nới lỏng chính sách của Việt Nam diễn ra sớm thì nguy cơ lạm phát sẽ quay trở lại.

Tuy nhiên, dẫn lời ông Hoàng Thạch Lân, giám đốc môi giới công ty chứng khoán MHB, Bloomberg cho biết, việc hạ lãi suất huy động sẽ là cơ sở để ngân hàng giảm lãi suất cho vay và cho vay nhiều hơn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Tất nhiên, điều này sẽ có thể là nguy cơ cho lạm phát, và vì vậy, cần cẩn trọng hơn.

Hãng tin Mỹ cũng dẫn lại mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho tăng trưởng tín dụng năm nay là 12% - tăng 7% so thực hiện năm 2012. Tuy nhiên, sau 2 tháng đầu năm, mức tăng trưởng lại âm 0,28% so cuối năm ngoái.

Nhìn chung, dưới quan sát của quốc tế, động thái hạ lãi suất chính sách lần này của NHNN không nằm ngoài mục tiêu nhằm kích thích tín dụng tăng trở lại, hỗ trợ doanh nghiệp cũng như tạo tiền đề phục hồi nền kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần lưu ý hơn về yếu tố lạm phát cũng như thực tiễn vay vốn của doanh nghiệp, liệu có đạt kết quả như kỳ vọng hay không.

Hạ lãi suất không phải là cách duy nhất để hỗ trợ doanh nghiệp. Đó chỉ là biện pháp đáp ứng nhu cầu tín dụng trong bối cảnh hiện tại. 

Về lâu dài, Việt Nam vẫn phải tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và giải quyết vấn đề nợ xấu. Như đánh giá của chuyên gia ANZ, mặc dù những biện pháp này sẽ mất một thời gian để mang lại lợi ích cho nền kinh tế, điều quan trọng là những cải cách này phải được tiếp tục duy trì trong những năm tới.

Bích Diệp