Đào tạo sinh viên sư phạm ở Việt Nam và nước ngoài khác nhau ra sao?

Việc đào tạo sinh viên sư phạm ở Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới có sự khác nhau rõ nét về thời gian thực tập ở các trường phổ thông.

Tính đến năm 2018, số sinh viên sư phạm ra trường mỗi năm là khoảng 60.930 sinh viên. Trong đó, sinh viên được đào tạo là giáo viên chuyên ngành Tiểu học là 19.200, THCS là 18.700 và THPT là 23.030.

Cho dù đến nay, Bộ GD-ĐT đã tăng số học sinh/giáo viên bình quân lên tương đương các nước công nghiệp phát triển nhưng đến năm 2020, hệ thống cũng không thể tuyển dụng hết số giáo viên mới tốt nghiệp ra trường, vẫn thừa khoảng 70.100 giáo viên (41.000 giáo viên đối với cấp Tiểu học, 12.200 đối với cấp THCS và 16.900 đối với THPT).

Vấn đề là trong khi lượng sinh viên sư phạm tốt nghiệp hàng năm nhiều nhưng các trường học lại đang thiếu đội ngũ giáo viên có trình độ, chuyên môn cao có thể đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục.

Sinh viên sư phạm chủ yếu “ngồi” ở giảng đường

Thông tin từ Hội thảo khoa học quốc gia đào tạo giáo viên tại các trường ĐH đa ngành đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết, ở Israel, sinh viên sư phạm chỉ học mỗi tuần 3 ngày tại trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) sư phạm, 2 ngày còn lại đi quan sát thực tế việc giảng dạy, học tập tại trường phổ thông suốt từ tuần thứ 2 của năm thứ nhất đến hết ba năm học đầu tiên. Mỗi năm học, hai tuần không có giờ học ở trường thì sinh viên dành toàn thời gian đi thực tế.

Thực tế đào tạo chuyên ngành sư phạm tại Israel và thực tập sư phạm tại Việt Nam đang có sự khác nhau rất lớn. Ở Israel, sinh viên sư phạm đi thực tế tối thiểu 9 tín chỉ, trung bình chiếm 15 tín chỉ (15,6%) trong tổng số 90-96 tín chỉ.

Còn ở ĐH Thủ đô Hà Nội, sinh viên thực tập 12 tuần, chiếm 5/95 tín chỉ (5,3%). Đại học Sư phạm Thái Nguyên cho sinh viên đi thực tập 10 tuần chiếm 5/135 tín chỉ (3,7%) trong tổng số tín chỉ.

Thạc sĩ Ariel Cegla, Trung tâm Đào tạo Quốc tế A. Ofri, Israel cho rằng, muốn đào tạo được giáo viên đáp ứng nhu cầu đào tạo, các trường sư phạm trên cả nước cần tăng thời gian thực tập sư phạm cho sinh viên. Bên cạnh đó, giảng viên các trường ĐH, CĐ cần trao đổi về mặt chuyên môn với sinh viên để hai bên cùng nắm được lý thuyết và phương pháp dạy học mới cũng như thực tế trải nghiệm dạy học tại trường phổ thông.

Qua trải nghiệm đào tạo chuyên ngành sư phạm ở một số nước trến thế giới, PGS.TS Bùi Văn Quân, trường Đại học Thủ đô Hà Nội nêu ý kiến, cơ sở đào tạo phải xác định đào tạo “giáo viên là người lao động nghề nghiệp chuyên nghiệp”. Tính chuyên nghiệp trong lao động nghề nghiệp của giáo viên đòi hỏi các cơ sở đào tạo giáo viên phải là những nơi tiên phong, chuyên nghiệp.

Quy trình đào tạo giáo viên phải được thiết kế, tổ chức gắn chặt với thực tiễn đời sống học đường, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa đào tạo và bồi dưỡng giáo viên theo quy trình gồm 3 giai đoạn: trước đào tạo nghề giáo viên, đào tạo nghề giáo viên và lao động nghề nghiệp tại cơ sở giáo dục mầm non hoặc phổ thông.

Theo PGS.TS Bùi Văn Quân, trong thời gian tới, cần có những nghiên cứu đánh giá các mô hình, phương thức đào tạo giáo viên hiện nay. Bên cạnh đó, mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải được phân tầng để đánh giá các trường sư phạm giảng dạy, đào tạo sinh viên sư phạm ra sao.

Đứng ở góc độ là trường ĐH chuyên ngành về nghiên cứu khoa học, GS.TSKH Dương Ngọc Hải, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Giám đốc Học viện Khoa học cho rằng, việc đào tạo sinh viên sư phạm trở thành giáo viên giỏi trong tương lai không chỉ dừng lại ở đào tạo lý thuyết, thực hành mà cần trang bị cho họ các kỹ năng nghiên cứu khoa học.

Hiện nay, nhận thức tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học trong đào tạo giảng viên chưa đầy đủ. Nguyên nhân một phần là do kinh phí nghiên cứu còn ít và thiếu giảng viên làm nghiên cứu khoa học. Nếu là trường ĐH nghiên cứu thì cả 2 vấn đề này có thể được giải quyết.

Chiến lược phát triển ngành sư phạm trong mạng lưới các trường ĐH cần phải nâng cao để phù hợp với xu hướng chung trên thế giới của ĐH nghiên cứu: Nghiên cứu gắn với giảng dạy và đào tạo.

Khuyến khích học sinh, sinh viên giỏi gắn bó với ngành sư phạm

Bên cạnh các yếu tố cần thiết chú trọng đến công tác đào tạo, muốn có được giáo viên giỏi trong tương lai, các trường ĐH cần chú trọng đến việc khuyến khích học sinh giỏi “đầu quân” vào ngành sư phạm. Đó là quan điểm của PGS.TS Nguyễn Mạnh An, trường Đại học Hồng Đức, tỉnh Thanh Hóa.

Thực tế, nguồn tuyển sinh “đầu vào” của sinh viên trúng tuyển vào học tập tại các trường ĐH địa phương tương đối thấp về mặt chất lượng làm ảnh hưởng đến chất lượng “đầu ra”, trong đó có đội ngũ giáo viên tương lai.

Vì vậy, các trường cần thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên phù hợp với chức danh và nhiệm vụ được phân công; Ưu tiên đặc biệt đối với những ngành đào tạo chưa có giáo viên trình độ tiến sĩ... Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách để thu hút được đông đảo học sinh giỏi vào học các ngành sư phạm tại các trường ĐH địa phương.

Trong khi đó, GS.TS Đinh Quang Báo, nguyên cán bộ nghiên cứu cao cấp Viện Nghiên cứu sư phạm (ĐH Sư phạm Hà Nội) nêu quan điểm, đất nước muốn đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao thì phải có những thầy cô giáo giỏi.

Do đó, chúng ta vẫn phải có chính sách thu hút học sinh giỏi “đầu quân” vào các trường sư phạm. Bên cạnh đó là cần có sự thay đổi cơ chế tuyển dụng, tạo việc làm để thu hút sinh viên giỏi tốt nghiệp ở các trường sư phạm vào các trường học giảng dạy.

Theo Bích Lan

VOV