Núi vẫn đôi mà thơ mất ông

Có những tác phẩm văn học gắn với một địa danh đã làm nổi tiếng một vùng đất, một ngọn núi, dòng sông. Trường hợp bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao là như vậy.

Ra đời ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, dựa trên một câu chuyện thật được nghe kể lại, nhà báo quân đội Vũ Hữu Chỉnh vụt trở thành nhà thơ Vũ Cao bằng bài thơ kể về một chuyện tình bi tráng gắn với ngọn núi Đôi ở một vùng trung du thuộc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.

Nhà thơ Vũ Cao tên khai sinh là Vũ Hữu Chỉnh, sinh ngày 18/2/1922 tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình Nho học.

 

Ngoài  Núi Đôi  - tác phẩm sáng chói trong văn nghiệp của ông, ông còn sáng tác Sớm nay (thơ),  Anh em anh chàng Lược  (truyện),  Em bé bên bờ sông Lai Vu  (truyện)... Vũ Cao từng kinh qua các chức vụ: Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.

 

Rạng sáng ngày 3/12, tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô (Hà Nội), Vũ Cao đã về cõi vĩnh hằng. Lễ viếng và truy điệu vào 9 giờ sáng ngày 8.12 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. (Theo Thanh Niên)

Thế là nhờ thơ nên “lối ta đi giữa hai sườn núi, đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi” đã thành con đường tình yêu, đỉnh núi tình yêu cho những chàng trai cô gái thế hệ sau tiếp bước làm những ngôi sao sáng, những bông hoa thơm khi nước nhà lên tiếng gọi.

 

Và nhờ thơ cô gái du kích ở Xuân Dục - Đoài Đông ấy đã được xác thực họ tên trong sổ vàng truyền thống của địa phương. Tên tuổi Vũ Cao gắn liền với bài thơ Núi Đôi trong ánh lung linh của thơ và đời như vậy.

 

Sinh năm 1922 tại Nam Định, Vũ Cao nhập ngũ năm 1946, và ông gắn liền cuộc đời binh nghiệp của mình với báo chí quân đội, từ báo Quân Đội Nhân Dân đến tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, từ công việc của một phóng viên đến chức trách của một tổng biên tập.

 

Khi cởi áo lính, ông làm giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, chủ tịch Hội đồng thơ (Hội Nhà văn Việt Nam). Nhưng với Vũ Cao, các chức trách phải gánh hình như không làm ông bận tâm. Điều ông muốn là được sống thật lòng mình với đời, với người.

 

Thơ đến với ông những khi cảm xúc được chắt lọc và thăng hoa, ông muốn trải lòng mình với con người và cảnh vật trong những vần thơ nhẹ nhàng, giàu nhạc điệu và tình cảm.

 

Ngay cả khi viết văn xuôi thì văn Vũ Cao cũng rất thơ. Mảng văn xuôi của ông dường như bị khuất lấp sau bóng Núi Đôi, nhưng ở cái truyện thường được nhắc tới nhất của ông thì tên truyện đã có thơ rồi - truyện Một đoạn thơ sông Đà.

 

Sinh thời Vũ Cao là người hồn hậu, vui vẻ. Dáng người ông cao lớn (cho nên bút danh của ông là từ biệt hiệu thuở trong quân ngũ) luôn đi cùng tiếng cười sảng khoái, nồng nhiệt. Bây giờ (3/12/2007) ông nằm xuống, từ nay núi vẫn đôi mà thơ mất ông. Nhưng thơ thay ông ở lại với đời kể tiếp câu chuyện tình núi Đôi và gửi đến những đôi lứa ngày sau tấm lòng thơ yêu người của ông.

 

Phạm Xuân Nguyên

Theo Tuổi Trẻ

 

 

Bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao

 

Bảy năm về trước em mười bảy

Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng

Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa

Bữa thì em tới bữa anh sang.

 

Lối ta đi giữa hai sườn núi

Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi

Em vẫn đùa anh sao khéo thế

Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.

 

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới

Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau

Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn

Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.

 

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc

Chiến đấu quên mình năm lại năm

Mỗi bận dân công về lại hỏi

Ai người Xuân Dục

Núi Đôi chăng.

 

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi

Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi

Mỗi tin súng nổ vùng đai địch

Sương trắng người đi lại nhớ người.

 

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở

Trung du làng nước vẫn chờ trông

Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm

Em vẫn đi về những bến sông.

 

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại

Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi

Hành quân qua tắt đường sang huyện

Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.

 

Mới đến đầu ao tin sét đánh

Giặc giết em rồi, dưới gốc thông

Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa

Em sống trung thành, chết thủy chung.

 

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi

Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi mà anh mất em.

 

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo

Em còn trẻ lắm, nhất làng trong

Mấy năm cô ấy làm du kích

Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

 

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối

Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy

Sân biến thành ao nhà đổ chái

Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,

 

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất

Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau

Nứa gianh nửa mái lều che tạm

Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.

 

Anh nghe có tiếng người qua chợ

Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều

Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc

Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.

 

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ

Oán thù còn đó anh còn đây

Ở đâu cô gái làng Xuân Dục

Đã chết vì dân giữa đất này?

 

Ai viết tên em thành liệt sĩ

Bên những hàng bia trắng giữa đồng

Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

 

Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.