Phong vị tết xưa trong kí ức một độc giả

"Tôi không đi qua tôi để lại gì” (Văn Cao) Cứ mỗi độ rét về, mưa phùn thì rải lên mặt đường những vệt bụi nước mờ ảo, Tháng Chạp buồn như một câu thơ cuối Đông, cho đến khi Tết về…

Bánh chưng ơi

Nhà tôi chuyển đi chuyển lại loanh quanh ba bốn bận ở góc phố Hạ Đình hẻo lánh, nhiều ao truông (đấy là thời xưa) rồi ngập ngừng định cư mé hồ Rẻ Quạt (chẳng biết ai đặt tên mà thành). Nhà có thể chuyển đi chuyển lại, cơ mà gần ba chục năm rồi, Tết nào cũng vậy, nhà tôi, xóm tôi lại rục rịch lá dong, gạo nếp làm bánh chưng.

Quãng gần Tết ông Công ông Táo, nhà đã hoan hỉ bàn bạc xem năm nay gói bao nhiêu chiếc, nhiều phen khiến bố gắt gỏng lên vì tính đi tính lại nhiều lượt. Lá dong rửa sạch, rửa kỹ, trước khi cho vào khuôn gói lại lấy khăn tay sạch lau khô một lượt nữa. Bố không biết gói thì chỉ định rõ số lượng thịt, đỗ xanh, gạo trong từng chiếc bánh. Mẹ gói vun lên xoắn lại cho lạt mềm nhưng buộc chặt chiếc bánh xanh màu lá dong, đượm mùi gạo nếp và đỗ xanh. Những ngày xưa thân ái, vun lửa lên từ ba góc bếp gạch, “nồi bánh chưng lúng búng sôi ngoài ngõ” như một câu thơ tôi từng viết. Cả nhà thay nhau trông nồi bánh, tôi thì gà gật xem phim hành động, dụi mắt trong cái rét cắt da cắt thịt, chêm lửa vào nồi bánh cho trọn một ngày. Bánh đã chín, xếp ngay ngắn lên mâm, dùng các vật nặng ép cho thân bánh vuông vức, ruột bánh chắc lẳn như đùi con gái mới lớn.

Hai Tết nay, con gái đầu của tôi đã lơn lớn, chạy lon ton, lăng xăng lấy nọ lấy kia cho bà nội gói bánh. Tiếng cười rộn rã ấm hơn mùa Đông lạnh, ngọn lửa bánh chưng lục bục cháy và âm thầm vươn làn khói mỏng mảnh lên tận cao xanh.

Quất và đào

Tết năm nào cũng vậy, dù thóc cao gạo kém, đói khổ đến đâu, nhà tôi phải có hoặc quất hoặc đào, hoặc cả hai. Trước Ba Mươi độ một hai hôm, tôi lấy xe chở bố lên sân Thượng Đình, rồi đường Hoàng Minh Giám chọn quất, đi mỏi rã cẳng để tìm cây quất nào xum xuê lá, đượm lộc mà lại hợp nhà. Có năm mua được cây quất vừa ý, nằm trên trường kỷ, bố tôi tủm tỉm cười mà ngắm một mình, làm ai cũng cười lây.
 
Đào tết
Đào tết

Quả quất cứ vàng rực lên mỗi độ Tết về, mà quả quất thì bao nhiêu điều hữu dụng, chữa ho quất pha mật ong này, thịt luộc chấm bột canh - ớt – vắt nước quất thì tuyệt cú mèo. Ngắm cây quất xum xuê lá, rực vàng quả, chúm chím lộc và hoa, cũng thực là thú vị. Nghe trong cái lạnh mùa Đông, thoang thoảng hương hoa Quất, đưa đẩy phong vị ngày Tết cứ rộn lên trong lòng mỗi người con đất Việt.

Cành đào đi vào thơ tôi như một niềm Xuân:

“Mùa xuân về trên những cánh đào phai

Và sẽ đi –

khi hoa tàn phố chợ

Em khóc gì cho những cánh hoa rơi?”


Màu hoa xao xuyến buông lộc đời, rải khắp Hà Thành những phơn phớt hồng như hấp háy cười trong cái lạnh lùng của mùa Đông. Không đào không quất thì còn gì là Tết nhỉ?

Khai bút đầu xuân

Lệ xưa, người có chữ đến đầu Xuân năm mới thì chọn một ngày đẹp để khai bút. Nét bút phượng múa rồng bay trên giấy đỏ như rực rỡ hơn cho một năm nhiều vận hội. Cái khung cảnh ấy cứ quyến luyến trong tôi những vần thơ đầy tình người của Vũ Đình Liên về những ông đồ già…

Tập cổ, hay là do bố mẹ dặn dò, từ năm lớp Ba, tôi cũng chọn ngày đẹp (chẳng biết theo tiêu chí gì, hay là theo Lịch Vạn Sự bán đầy ở các chùa), khi thì viết đôi câu thơ, lúc giải bài Toán trên cuốn vở hăng lên mùi giấy mới. Chữ thì phải có nghĩa, những điều này răn tôi từ những nét chữ đầu Xuân ấy…

Năm qua, Xuân lại, Tết đến, có bỏ sau lưng bao điều không vui vẻ, nhẩn nha chữ nghĩa, nhẩn nha tình, thưởng thức cuộc sống còn bao điều buồn nhiều hơn vui, ít ra, Tết đang đến và về đây, sum họp cả nhà quây quần bên mâm cỗ tất niên (dù ít dù nhiều, dù sang dù nghèo) đậm đà cái TÌNH, cái NGHĨA buổi đầu Năm…

Theo Vietnamnet